Thứ Năm, 21 tháng 1, 2010

TÀI SẢN VÀ CHẾ ĐỊNH UỶ QUYỀN QUẢN LÝ (TRUST) CỦA PHÁP LUẬT ANH

Trịnh Quốc Vũ

Lịch sử phát triển của hệ thống pháp luật Anh bắt đầu từ khi Guillaume le Conquerant, Công tước xứ Normandie, lên ngôi hoàng đế nước Anh (năm 1066 ).
Pháp luật Anh phát triển qua các giai đoạn cơ bản sau: sự xuất hiện của hệ thống các nguyên tắc “luật án lệ” ( common law ), sau đó là các nguyên tắc “công bằng” ( equity ); hai cuộc cách mạng ở nước Anh ( 1642 – 1649 và 1688 – 1689 ); sự thắng thế của Toà án và luật án lệ, tiếp theo là sự ra tăng vai trò của các văn bản luật dẫn đến việc Toà án mất dần vị trí ưu thế.
Từ lịch sử phát triển của hệ thống pháp luật Anh ta thấy trong một số ngành của luật tư pháp Anh sẽ có sự kết hợp hết sức phức tạp giữa các quy tắc có nguồn gốc khác nhau ( common law, equity, luật thành văn ) để giải quyết các vấn đề pháp lý. Hệ thống pháp luật của vương quốc Anh về tài sản và về chế định uỷ quyền quản lý là một ví dụ hết sức điển hình của việc áp dụng đông thời các nguyên tắc của common law và equity để điều chỉnh cùng một tài sản. Hệ thống pháp luật này có đặc trưng là rất phức tạp: có rất nhiều loại quyền khác nhau đối với các tài sản, khác với các quy định pháp luật về quyền sở hữu của các nước theo truyền thống pháp luật La Mã. Do đó việc nghiên cứu và học tập về tài sản và chế định uỷ quyền quản lý trong pháp luật Anh là vô cùng bổ ích và lý thú
.


1. TÀI SẢN.
Có nhiều học thuyết về tài sản: Học thuyết chiếm hữu đầu tiên, học thuyết giá trị lao động, học thuyết vị lợi, học thuyết tự do…..Nhưng chỉ có hai học thuyết lớn chi phối luật tài sản của các quốc gia đó là trường phái luật tự nhiên và trường phái thực chứng pháp lý. Trong đó truờng phái thứ hai ( thực chứng pháp lý ) chi phối các nước thuộc common law xuất phát từ tư tưởng của Jeremy Bentham. Trong cuốn The Theory of Legislation, Ông viết: “ Tài sản và pháp luật sinh ra và chết đi cùng nhau, trước khi pháp luật được làm ra thì không có tài sản; loại bỏ pháp luật và tài sản chấm dứt”.
Phân loại tài sản có ý nghĩa vô cùng quan trọng nó liên quan tới hàng loạt các vấn đề pháp lý như: Bảo đảm nghĩa vụ dân sự, hiệu lực của hợp đồng, công khai các quyền tài sản, thương mại và tư pháp quốc tế…
Có rất nhiều cách phân loại tài sản nhưng trên hết tất cả và quan trọng nhất là chia tài sản thành động sản và bất động sản.
1.1. Bất động sản.
Trong pháp luật Anh không có sự phân biệt giữa vật quyền và trái quyền, tất cả các quyền liên quan tới một bất động sản đều được coi là quyền đối với tài sản.
Việc quy định này hoàn toàn hợp lý vì thực sự các quyền liên quan tới bất động sản đều là vật quyền. Quy định này cũng rất thuận tiện cho việc giao dịch về bất động sản. Điều này khác hẳn với pháp luật Việt Nam, trong Bộ luật dân sự Việt Nam các nhà làm luật đã phải tách hẳn phần giao dịch về bất động sản thành một chương riêng. Điều này có thể không cần nếu chúng ta hiểu đúng về các quyền liên quan tới bất động sản đều là vật quyền hay quyền tài sản. Khi đó các giao dịch liên quan tới bất động sản sẽ thuộc phần các giao dịch về tài sản. Vì quyền đối vật là tài sản có thể chuyển giao, cầm cố, thế chấp…
Ví dụ: Quyền của bên thuê nhà đối với ngôi nhà mình thuê cũng là một quyền bất động sản, có giá trị như quyền chiếm hữu tuyệt đối ( fee simple absolute in possession ) – là quyền đầy đủ nhất đối với bất động sản
Quyền của nhiều chủ thể khác nhau cùng tồn tại đối với một bất động sản.
Hiện tượng song tồn trên đây có thể xuất pháp từ việc tồn tại cùng lúc nhiều quyền không đầy đủ đối với tài sản:
Ví dụ 1: Quyền của bên cho thuê và bên thuê đối với một bất động sản;
Ví dụ 2: Quyền của con nợ có thế chấp và chủ nợ có thế chấp đối với bất động sản thế chấp
Hiện tượng song tồn này có thể là kết quả của việc chuyển giao các quyền khác nhau đối với tài sản.
Ví dụ : Quyền của người hưởng hoa lợi và quyền của hư chủ. Tuy nhiên, common law và sau đó cả các văn bản luật cũng không đồng tình với việc kéo dài thời gian chuyển giao.
Ngoại lệ duy nhất là trường hợp người có quyền chiếm hữu tuyệt đối chưa nhượng bất kỳ quyền một nào trên bất động sản của mình cho người khác.
Xác định trật tự thứ bậc các quyền đối với cùng một bất động sản
Theo quy định của luật năm 1925 về bất động sản, thì chỉ có hai quyền được điều chỉnh bởi các quy tắc common law là quyền chiếm hữu tuyệt đối và quyền thuê bất động sản. Tất cả các quyền còn lại đều do equity điều chỉnh, như là : các dịch quyền và quyền thế chấp.
Cũng theo quy định của luật năm 1925, thì chỉ có các quyền common law mới có thể chuyển nhượng mà không kèm theo các quyền equity; khi chuyển nhượng, các quyền equity sẽ đựơc quy đổi thành tiền. Chỉ có các quyền common law mới có thể chuyển nhượng hoặc thế chấp.
Trong vấn đề quản lý đất đai thì nhà nước quản lý bằng sổ địa bạ. Nhưng không có sổ địa bạ đầy đủ.
Trước khi ban hành Luật đăng ký đất đai năm 1997, không phải giao dịch đất đai nào cũng được ghi trong sổ đăng ký mà chỉ đăng ký các giao dịch liên quan tới những bất động sản đã được đăng ký trước đó. Đối với các bất động sản chưa được đăng ký trong sổ địa bạ mà đã được cho thuê hoặc thế chấp thì phải có văn bản làm chứng và có xác nhận của một luật sư tư vấn.
Từ khi thực hiện cải cách theo quy định của Luật 1997, việc đăng ký là bắt buộc, đặc biệt là đối với các giao dịch quan trọng có liên quan đến một bất động sản trước đó chưa được đăng ký trong sổ địa bạ. Ngoài ra, các hợp đồng sau đây cũng phải đăng ký: hợp đồng mua bán, hợp đồng thế chấp thuộc hàng thứ nhất, hợp đồng cho thuê ưu đãi với thời hạn trên 21 năm, hợp đồng cho thuê thông thường với thời hạn trên 21 năm.
Những người có quyền lợi liên quan có thể yêu cầu sửa chữa những sai sót trong việc đăng ký. Nhưng trong trường hợp này, cơ quan đăng ký có nghĩa vụ bồi thường cho những người đã chịu thiệt hại.
1.2. Động sản.
Động sản là tài sản hữu hình, quyền đòi nợ, quyền sở hữu trí tuệ được điều chỉnh bằng các chế định không mấy phức tạp vì các quyền này không được chia quá nhỏ và, theo quy định của Luật năm 1925, các quyền này cũng không được phân chia theo trật tự thứ bậc.
Các quyền cơ bản đối với động sản gồm:
- Quyền sở hữu;
- Quyền chiếm hữu tài sản của người khác trên cơ sở một hợp đồng thuê, thuê – bán ( cho thuê tài sản với giá cao để sau khi hết thời hạn cho thuê, bên thuê sẽ có quyền sở hữu hoàn toàn đối với tài sản đó ), hợp đồng vận tải, gửi giữ, bảo lãnh.
Chủ thể các quyền trên có thể kiện ra toà yêu cầu bảo vệ quyền chiếm hữu của mình.
Trong pháp luật Anh quyền chiếm hữu đã được tách ra khỏi quyền sở hữu thành một chế định riêng. Điều này khác hẳn với pháp luật Việt Nam.
1.3 Các ảnh hưởng của việc phân loại tài sản thành động sản và bất động sản .
Cách phân loại này được áp dụng cho mọi nguồn của cải kể cả tài sản hữu hình và tài sản vô hình.
Người ta thiết kế các quy định chi tiết hơn về bất động sản.
Do tính không di chuyển được, nên pháp luật dễ dàng áp đặt một hệ thống đăng ký bất động sản để công khai các quyền nhằm thông báo cho các chủ nợ. Vì vậy các quyền trên bất động sản thường phức tạp hơn.

2. CHẾ ĐỊNH UỶ QUYỀN QUẢN LÝ ( TRUST ).
2.1. Lịch sử hình thành và định nghĩa.
a. Lịch sử hình thành.
Uỷ quyền quản lý là một chế định sáng tạo của equity. Do nhu cầu mong muốn tài sản được sở hữu bởi một người khác hơn người mà có quyền lợi thực sự đối với tài sản. Các Thẩm phán của toà án equity đã có ý tưởng quy định cho những người có quyền đối với các tài sản (đặc biệt là đối với bất động sản ) một số nghĩa vụ hạn chế quyền quản lý và định đoạt đối với tài sản của mình và công nhận người bị hạn chế quyền như vậy được hưởng một số quyền “công bằng” ( equity ).
Có một đạo luật trong lịch sử gọi là The Statute of Mortmain ( Quyền chiếm hữu vĩnh viễn ) cấm cấp đất cho nhà thờ miễn phí. Để tránh chi trả phí đất được cấp cho một người trên căn bản người này quản lý đất vì lợi ích của nhà thờ mà không phải vì lợi ích của mình. Toà án của common law chỉ thừa nhận sự kiện đất được chuyển nhượng hợp pháp cho người này, do vậy người này có thể làm bất kỳ điều gì trên đất đó. Trong khi đó toà án công bằng không từ chối quyền sử hữu đất đó của người này, thực hiện hành vi đối nhân (asked in personam) buộc người này phải hành động phù hợp với sự thật là vì quyền lợi của người được thụ hưởng.
Còn theo Giáo sư Michael Bogdan thì chế định uỷ quyền quản lý ra đời để tránh các loại thuế và nghĩa vụ; Vào thời kỳ Trung cổ, người được thừa kế bất động sản thì phải thực hiện nghĩa vụ đặc biệt. Để tránh phải thực hiện nghĩa vụ này, chủ sở hữu, ngay từ khi còn sống, đã trao tài sản cho người bà con hoặc bạn bè thân tín, để người này sau khi người chủ sở hữu chết, sẽ chuyển tài sản đó cho những người thừa kế của mình. Bằng cách này việc người tiếp nhận tài sản của người đã chết không bị coi là thừa kế.
b. Định nghĩa.
Theo cách định nghĩa của luật gia nổi tiếng Maitland: “ Khi một người có các quyền nào đó mà anh ta phải thực hiện vì lợi ích của người thứ ba hoặc để thực hiện một mục tiêu đặc biệt nào đó đã được xác định trước, thì có thể nói rằng người này được uỷ quyền quản lý cho người thứ ba đó hoặc cho mục tiêu đó và được gọi là người quản lý ”( trustee ).
Vậy trust là một nghĩa vụ được thi hành trong equity mà dựa trên một người là trustee ( người được uỷ thác ) mà là người chủ sở hữu pháp lý của tài sản quản lý tài sản vì lợi ích của một người khác là beneficiary ( người thụ hưởng ) hoặc nhằm một mục đích xác định.
2.2.Các hình thức uỷ quyền quản lý.
Đối tượng được hưởng quyền hạn chế là những cá nhân xác định.
-Uỷ quyền quản lý tư ( private trust ). Có ba loại uỷ quyền quản lý tư:
Uỷ quyền rõ ràng: do người có quyền lập dưới hình thức hợp đồng được đóng dấu, di chúc hay bằng một văn bản thông thường, trong đó, chỉ rõ các tài sản và các quyền sẽ được chuyển giao, người được giao quản lý và những người được thụ hưởng.
Uỷ quyền suy đoán theo quyết định của Toà án ( resulting trusts ): là loại uỷ quyền mà người ta phải suy đoán từ quyết định của Toà án ra xem ai là người được uỷ quyền quản lý, tài sản, các quyến sẽ được chuyển giao, những người được thụ hưởng là ai.
Ví dụ: Nếu người hưởng thụ việc uỷ quyền quản lý chết thì bản thân người lập uỷ quyền quản lý sẽ được coi là người hưởng thụ; hoặc nếu một người nào đó được giao quản lý một số tiền của người khác mà dùng số tiền đó để mua một tài sản đứng tên mình thì sẽ được coi là người quản lý tài sản đó ( tương đương với chế định “thực hiện công việc không có uỷ quyền” của Pháp ).
Uỷ quyền theo quy định của pháp luật: Đây là loại uỷ quyền quản lý mà các bên tham gia không có ý chí uỷ quyền rõ ràng. Mà do hình thức của giao kết giống việc uỷ quyền quản lý.
Ví dụ: Nếu một người mua một tài sản nào đó là đối tượng của một hợp đồng uỷ quyền quản lý mà biết rằng việc chuyển nhượng như vậy sẽ vi phạm quyền quản lý thì bản thân người đó sẽ trở thành người quản lý; hoặc khi một người cam kết bán ngôi nhà của mình thì sẽ trở thành người quản lý của bên mua cho tới khi quyền chiếm hữu tuyệt đối thực sự được chuyển giao. Riêng về điểm này thì Pháp luật Việt Nam không thể có và nó còn khá mới vì Pháp luật dân sự Việt Nam quyền chiếm hữu nằm trong quyền sở hữu. Trong pháp luật dân sự Anh như phần trên đã trình bày thì quyền chiếm hữu đã được tách ra thành một chế định riêng thành một quyền năng độc lập không nằm trong quyền sở hữu.
-Uỷ quyền quản lý công hay uỷ quyền quản lý tập thể ( public or charitable trusts ).
Đối với thể loại uỷ quyền này, người thụ hưởng là một bộ phận dân cư. Nét đặc thù của thể loại uỷ quyền này chính là mục tiêu của nó: đó là việc giảm nghèo, phát triển giáo dục, truyền bá tôn giáo và mọi hoạt động công ích khác ( ví dụ: bảo vệ môi trường ). Hình thức uỷ quyền quản lý này được thực hiện thông qua các tổ chức.
2.3. Bản chất của trust.
Trust là một khái niệm thuộc Equity xuất hiện khi có sự chia tách quyền sở hữu pháp lý và quyền hưởng dụng thu lợi đối với tài sản, có nghĩa là khi một hay nhiều người có quyền sở hữu pháp lý đối với tài sản và có nghĩa vụ hợp pháp quản lý tài sản đó vì lợi ích của một hay nhiều người khác.
2.4. Quy chế của người quản lý.
- Theo các quy tắc common law, người quản lý được hưởng đầy đủ các quyền đã được chuyển giao cho mình. Ví dụ nếu người quản lý đã nhận chuyển giao quyền chiếm hữu tuyệt đối đối với các bất động sản thì có quyền bán bất động sản đó, trừ trường hợp văn bản xác lập việc uỷ quyền quản lý quy định khác.
- Theo các quy tắc equity, người quản lý có nghĩa vụ cơ bản: quản lý một cách có trách nhiệm và cẩn trọng khối tài sản được giao và tuân thủ một cách chặt chẽ các điều kiện quy định trong văn bản xác lập việc uỷ quyền quản lý(các điều khoản này chỉ được sửa đổi trong một số trường hợp hết sức đặc biệt).Thông thường, việc quản lý không được trả thù lao (trừ trường hợp có quy định khác).Theo yêu cầu của những người hưởng thụ việc uỷ quyền quản lý, toà án sẽ có những biện pháp can thiệp mạnh mẽ trong trường hợp bên được giao quyền quản lý vi phạm nghĩa vụ của mình như: biện pháp cưỡng chế, chế tài hình sự (các biện pháp này đã được giảm nhẹ theo quy định của luật năm 1925 về uỷ quyền quản lý).
2.5. Tư cách pháp lý của người hưởng thụ việc uỷ quyền quản lý.
- Theo các quy tắc common law, người hưởng thụ việc uỷ quyền quản lý không có quyền gì.
- Theo các quy tắc equity, người hưởng thụ có các quyền sau đây:
Quyền khởi kiện ra toà án yêu cầu thi hành việc uỷ quyền quản lý và có thể yêu cấu toà án truy cứu trách nhiệm hình sự;
Quyền kiện đòi tài sản đã được chuyển nhượng trái với quy định về uỷ quyền quản lý(nếu có yếu tố không ngay tình) hoặc kiện đòi tài sản mua được bằng tiền bán tài sản đã được uỷ quyền quản lý.


3. KẾT LUẬN.

Giống như trong những thời ký trước đây, uỷ quyền quản lý cho phép thực hiện những thoả thuận trong gia đình, giữa những người còn sống hoặc có tính chất di chúc, đặc biệt là vì quyền lợi của con cái. Trong lĩnh vực này, pháp luật cấm không được lập các hình thức uỷ quyền quản lý vĩnh viễn: trên nguyên tắc, thời hạn hiệu lực của các văn bản xác lập việc uỷ quyền quản lý không được vượt quá 21 năm tính từ ngày người lập uỷ quyền quản lý chết (theo án lệ đã được thiết lập ngay từ thế kỷ XVII và được công nhận trong Luật năm 1925, và được sửa đổi bởi Luật năm 1964 ).
Uỷ quyền quản lý cũng được sử dụng như một biện pháp kỹ thuật để thực hiện một số công việc trong thời hạn ngắn, như:
Trong hoạt động mua bán ( trust for sale );
Thanh toán phân chia di sản do người được giao quản lý thực hiện (personal representative).
Uỷ quyền quản lý được áp dụng trong lĩnh vực tài chính: để quản lý các khoản vay hay tiền gửi của cá nhân một cách linh hoạt và hiệu quả, hay hơn so với mô hình công ty đầu tư chứng khoán của Pháp ( investment trust ).
Uỷ quyền quản lý cho phép nhiều tổ chức hoật động được trong nhiều lĩnh vực khác nhau : tổ chức từ thiện, trường đại học, học viện, tổ chức tô giáo, tổ chức bảo vệ rừng v.v..
Từ những ứng dụng thực tế của chế định uỷ quyền quản lý trên, chúng ta thấy ý nghĩa của chế định này trong pháp luật Anh là vô cùng quan trọng. Để có được chế định trust như trên không thể phủ nhận vị trí quan trọng của việc phân loại tài sản. Thiết nghĩ nêu như hệ thống pháp luật Việt Nam cũng có chế định này thì hay biết bao. Trước khi có chế định này trong hệ thống pháp luật Việt Nam thì việc làm trước tiên chúng ta phải làm là phân loại tài sản một cách chi tiết hơn.

Không có nhận xét nào: